Translate this page:
Mục Lục

 

 

 

XII . Một Số Ngộ Nhận Và Nghi Vấn Về LLHT

Vì là một đơn vị Biệt Kích được ngụy trang rất khéo léo, nên rất ít người biết rõ về tông tích nhân viên LLHT. Nhiều khi ngay cả các bạn đồng đội phục vụ trong các đơn vị Hải Quân thông thường cũng không rõ họ ở đâu, ngoại trừ có dịp đi công tác tại vùng Đà Nẵng. Các chiến đĩnh thuộc LLHT cũng là nguồn gốc của nhiều cuộc tranh luận khá sôi nổi, nhất là đối với những tác giả và người không quen thuộc với Hải Quân.

Vì vậy, cho tới bây giờ, sau khi chiến tranh chấm dứt đã gần 30 năm, cũng vẫn còn nhiều ngộ nhận và nghi vấn liên quan tới LLHT. Ngay cả những nhân viên từng phục trong MACSOG cũng như các tác giả Hoa Kỳ vẫn kể và viết lại lắm điều thiếu rõ ràng hoặc không đúng sự thật. Đây không phải vì họ cố tình xuyên tạc, nhưng theo nguyên tắc tình báo, mỗi người chỉ biết được phần nhiệm của mình nên ít ai có được cái nhìn toàn bộ và trung thực.

Sau đây là những "sự thật" mà chúng tôi biết được về một số nghi vấn và ngộ nhận trong các sách vở Hoa Kỳ cũng như Việt Nam.

 


- Về Nhân Viên

Tác giả Anthony Austin, trong cuốn sách President's war nói rằng tuy có người Việt Nam trên các chiến đĩnh, nhưng không có ai thuộc HQVN hoặc mặc quân phục Hải Quân. Tất cả thủy thủ đoàn chiến đĩnh đều là dân "đánh mướn".

Trong tài liệu "Maritime Operation" của MACSOG cũng nói cho tới đầu năm 1964, vì không tuyển mộ được nhân viên thuộc HQVN nên phải mướn nhân viên dân sự.

Trong cuốn sách "Tonkin Gulf and the Escalation of Việt Nam War, tác giả là "Sử gia" Edwin Moise của Trường Đại Học Clemson viết rằng: "có nhiều bằng chứng xác thực cho thấy thủy thủ đoàn các chiến đĩnh Nasty thuộc HQVN và họ mặc quân phục trong khi thi hành công tác" (There is good evidence that the Nasty boat crews belonged to the South Vietnammese navy and wore uniform while on operation" (trang 15). Giáo Sư Moise cũng nói: "Hải Quân VNCH cho biết đã tuyển lựa những nhân viên xuất sắc nhất để xung vào LLHT và đặc biệt các sĩ quan đã chứng tỏ họ là những người xuất sắc... (trang 15) - (The RVN Navy had said it was assigning the cream of its men to this program, and the officers in particular were convinced they were the cream".

Sự thật:

Kể từ khi LLHT được thành lập, thủy thủ đoàn của các chiến đĩnh đều thuộc HQVN, tuy nhiên, họ KHÔNG mặc quân phục HQ trong lúc đi công tác. Giáo Sư Moise đã nói đúng về nhân viên đều là những người xuất sắc.

 


- Về Trang Bị Và Công Tác

Tác giả Điệp Mỹ Linh trong cuốn "Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa Ra Khơi" viết: "Các khinh tốc đĩnh (PT - Motor Torpedo Boat) dài độ 80 feet, vỏ bằng nhựa, máy chạy bằng dầu cặn, được đóng tại Na Uy, vận tốc trên 50 hải lý một giờ. Các PT thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải có biệt danh là "Nasty" và "Swift". Mỗi PT thường được trang bị: một súng cối 130 hoặc 81 ly, quay và nhắm được, đặt sau đài chỉ huy; hai đại liên 50 đôi đặt hai bên và một trọng pháo phòng không 40 ly, hai nòng, bắn tự động." (trang 69). Cũng tại trang 69: "Sau khi thi hành công tác từ Bắc về, tinh thần và thể chất quân ta mệt mỏi, rã rời, PT Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa thường bị PT Việt Cộng chận đánh, khoảng Hòn Cọp. PT Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa cũng thường bị MiG Bắc Việt (bay từng cặp) phát giác bằng radar và dùng hỏa tiễn tầm nhiệt tấn công. Việt Cộng thường dùng loại tàu Kronstad, vận tốc độ 35 hải lý một giờ và loại P4, vận tốc 65 hải lý một giờ và trang bị 6 giàn đại liên 50 đôi để tấn công PT Nam Việt Nam".

Sự Thật:

 

- Các PTF vỏ bằng ván ép hoặc bằng nhôm, không phải bằng nhựa.

- Chỉ có PTF do Na Uy đóng có biệt danh là "Nasty", còn "Swift" là biệt danh của PCF.

- PTF chỉ có súng cối 81 ly đặt TRƯỚC đài chỉ huy, không có súng cối 130 ly; còn PCF súng cối 81 ly mới đặt sau đài chỉ huy.

PTF không có đại liên 50, chỉ có đại bác 20 đặt bên hông. Đại bác 40 ly một nòng, không phải loại hai nòng. Quân ta khi đi công tác về tuy hơi mệt mỏi sau một đêm thức trắng, nhưng không đến độ "rã rời".

PTF không "thường" bị PT Việt Cộng chận đánh khoảng Hòn Cọp. Lý do vì đa số PT Việt Cộng đã bị đánh chìm; chiếc nào còn lại chỉ lẩn trốn trong bờ, không giám nghênh chiến với các PTF trội hơn về hỏa lực cũng như tốc độ, ngoài ra các PTF còn có thể gọi phi cơ Hoa Kỳ trợ chiến khi cần. Chúng tôi còn nhớ trong chiến dịch "Double Tango", các PTF phong tỏa và pháo kích Hòn Cọp liên tiếp cả tháng trời, không thấy có PT Bắc Việt nào chận đánh. Trong suốt 5 năm ở LLHT với trên 100 chuyến công tác, chúng tôi cũng chưa hề nhìn thấy một PT Việt Cộng nào bằng mắt thường. Ban đêm cũng chưa từng "phát hiện" (track) được chiếc nào bằng radar. Theo chúng tôi được biết, trong hàng ngàn chuyến công tác, chỉ có vài ba cuộc đụng độ giữa PTF và các PT Bắc Việt. Bắc Việt gọi Hòn Cọp là Cồn Cỏ. Nói đến hòn đảo này, môt Hạm Trưởng PTF cho biết:

"Trên vĩ tuyến 17, ngoài khơi Vĩnh Linh độ 30 hải lý là một hòn đảo nhỏ mà suốt ngày đài Hà Nội tuyên dương là "Cồn Cỏ anh hùng". Nơi đây có một đơn vị Hải Quân Bắc Việt trú đóng và cũng có trang bị một số súng phòng duyên. Chỉ tội cho các đồng chí cán binh phải ở trong tình trạng ứng chiến tháng này qua tháng nọ. Các chiến đĩnh mỗi khi đi công tác về đều được lệnh tặng vài quả đạn vào đảo để các đồng chí tỉnh ngủ. Các phi cơ Hoa Kỳ cũng dùng đảo này là nơi trút hết bom đạn trước khi về căn cứ".

- Tầu Kronstad tốc độ tối đa lý thuyết chỉ lên đến khoảng 28 hải lý một giờ; Việt Cộng chưa chắc đã có loại tầu này. Còn P-4 vận tốc tối đa 45 hải lý một giờ.

- Nghe đâu chỉ có một vài vụ phi cơ Bắc Việt tấn công PTF. Ngoài ra, hỏa tiễn tầm nhiệt của phi cơ chỉ dùng cho các mục tiêu trên không như trong các trận không chiến hoặc trên đất như chiến xa. Đối với các mục tiêu trên biển, hỏa tiễn không-hải của Mig chỉ là loại thông thường.

 


- Trang Bị Và Huấn Luyện

Tác giả Vương Hồng Anh trong bài "Biệt Hải và Hải Tuần: Trận chiến với CQ ở Duyên Hải" đăng trong Việt báo Kinh Tế ngày 3/12/99, viết: "... Các cố vấn Hải Quân SOG đã biến cải 12 giang tốc đĩnh Swift để xử dụng trong các cuộc hành quân bí mật. Với vận tốc 80 km/giờ, các giang tốc đĩnh được võ trang với đại bác 40 ly và các vũ khí nhẹ. SOG đã đưa thủy thủ đoàn giang tốc đĩnh và các biệt kích từ Long Thành đi huấn luyện xâm nhập bờ biển và oanh kích vùng cận duyên, các toán này được huấn luyện tại môt căn cứ bí mật ở phía nam gần Sài Gòn. Các giang tốc đĩnh đã tập dượt chạy ngoài khơi miền Nam Việt Nam xa bờ từ 100 đến 110 km để có thể tiến gần từ ngoài biển vào Bắc Việt vì con đường biển sát bờ rất đông thuyền bè qua lại khó lòng mà lọt và không bị theo dõi phát hiện".

Sự Thật:

Swift không phải là GIANG Tốc Đĩnh mà là DUYÊN Tốc Đĩnh. Giang Tốc Đĩnh (Patrol, Boat River - PBR) là loại tầu nhỏ, vỏ bằng Fiberglass. Chiến đĩnh ngoài biển có thể hoạt động trong sông, nhưng ngược lại, các giang đĩnh khi ra biển rất dễ bị sóng đánh chìm, nhất là khi chạy xa bờ từ 100 đến 110 km. Các thủy thủ đoàn PTF và Swift đều được huấn luyện tại vùng biển Đà Nẵng. Hải trình các chuyến công tác cũng thường song song với bờ biển Bắc Việt, rất ít khi xa bờ tới 100 km.

 


- Căn Cứ Hải Quân Việt Cộng

Tác giả Vương Hồng Anh cũng viết về "Chuyến đột kích phá tàu CSBV ở Hòn Cọp" như sau: "Chuyến công tác đầu tiên là toán Người Nhái bí mật đột kích phá hoại tàu của quân CSBV ở Hòn Cọp..."

Sự Thật:

Việt Cộng không có căn cứ hải quân tại Hòn Cọp và tại đây cũng không có bãi ủi hay chổ neo tầu. Căn cứ hải quân của VC gần vĩ tuyến 17 nhất là Đồng Hới. Theo chỗ chúng tôi được biết, đây là chuyến công tác nhắm vào căn cứ Quảng Khê nằm ở cửa sông Gianh.

 


- Thủy Thủ Đoàn

Những nhân viên Hoa Kỳ phụ trách việc huấn luyện có thực sự đi theo những chuyến công tác vượt vĩ tuyến 17 không? Mặc dù bị chính sách Hoa Kỳ nghiêm cấm, nhưng điều này có được tuyệt đối tôn trọng không? Theo Đại Tá Bucklew, Chỉ Huy Trưởng Toán Yểm Trợ Hành Quân Hải Quân chịu trách nhiệm về các nhân viên Hoa Kỳ hoạt động cho MACSOG, thì điều luật này thường hay bị vi phạm (habitually violated the prohibition). Sử gia Moise cũng phỏng vấn Đại Tá Bucklew về vấn đề này và viết trong cuốn sách của ông như sau: "Thực ra, Đại Tá Bucklew biết rằng không có trường hợp nào các PTF ở Đà Nẵng đi công tác mà không có nhân viên Hoa Kỳ đi theo. Ông nhớ ràng chính người Mỹ điều hành chiến đĩnh, trong khi nhân viên Việt Nam đi đóng vai trò phụ việc. Ông cũng nói là vào khoảng năm 1964, đã có đề nghị để sĩ quan và thủy thủ đoàn Việt Nam điều hành chiến đĩnh trong những chuyến công tác, nhưng đề nghị này đã bị bác bỏ vì người Việt Nam không đủ khả năng" (trang 16) - (Indeed, he is not aware of any cases in which the PTFs from Danang went on combat operation without American personnel aboard. His recollection is that the Americans were running the boat, with the Vietnamese along in what was essentially an apprenticeship role. He states that there were suggestions during 1964 that Vietnamese officers and men be given actual responsibility for handling the boats on combat missions, but that these suggestions had been opposed on the grounds that the Vietnamese did not have the skills".

Cũng theo sử gia Moise, trong cuộc phỏng vấn ngày 10/3/88, "Đô Đốc Roy L. Johnson, Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội kể từ tháng 6/64, nhớ lại rằng thủy thủ đoàn Việt Nam đã chứng tỏ rằng không tin tưởng được. Khi đi công tác ngoài Bắc, đôi khi họ chỉ chạy lòng vòng vài tiếng đồng hồ ngoài biển rồi khai gian là đã hoàn thành công tác giao phó. Do đó, thủy thủ đoàn người Hoa Kỳ đã phải được dùng để thay thế người Việt Nam. Đô Đốc Johnson cũng "khá chắc chắn" rằng vào khoảng tháng 8/64, thủy thủ đoàn Hoa Kỳ đã được dùng trong các công tác đột kích duyên hải Bắc Việt. Nếu sự thay đổi không phải là vào lúc này thì cũng chỉ ít lâu sau đó" (trang 16) - (Vice Admiral Roy L. Johnson, commander of the U.S. Seventh Fleet starting in June 1964, recalls that the Vietnamese crews had proved unreliable. When sent out to an operation against the North, they sometimes just cruised around in circles for a few hours off shore, and then filed a false report claiming that they had conducted the assigned operation. Admiral Johnson is "pretty sure" that American crews were used on raods against the Nort Vietnamese coasts by August 1964; if the change had not come by this time, it come soon after".

Sự Thật:

Trong những chuyến công tác vượt vĩ tuyến 17 qua hải phận Bắc Việt, KHÔNG hề có người Mỹ đi theo. Việc thủy thủ đoàn người Hoa Kỳ đưa PTF ra Bắc công tác chỉ có trong trí tưởng tượng của ông Tư Lệnh Đệ Thất Hạm Đội, vì lúc nào ông cũng nghĩ rằng chỉ có những thủy thủ của ông mới tin tưởng được. Trong nhiều trường hợp, thực tế đã chứng tỏ một hạm trưởng PTF thâm niên biết nhiều về chiến đĩnh và đáng tin tưởng hơn những "cố vấn" chân ướt chân ráo mới tới rất nhiều.

Ngoài ra, các PTF khi đi công tác phải theo hải trình vạch sẵn tới những "check point" vào đúng giờ giấc ấn định để lực lượng bạn không ngộ nhận với tầu địch, vì vậy không hề có chuyện chạy lòng vòng.

Về vấn đề "người Mỹ" này, một hạm trưởng phục vụ lâu năm tại LLHT cho biết như sau:

"LLHT có lẽ là đơn vị độc nhất của QLVNCH mà trong 8 năm chiến đấu trong lòng địch không có một cố vấn Mỹ nào đi theo, các cố vấn NAD chỉ có nhiệm vụ yểm trợ, tình báo, tiếp vận và sửa chữa tầu. Tình cảm của họ đối với chúng tôi tất là sâu đậm. Đôi khi một vài Sĩ Quan hay Hạ Sĩ Quan Mỹ nói đùa thế nào họ cũng đi công tác với chúng tôi một lần. Không ngờ nói chơi mà hóa thật. Trong một chuyến công tác do anh H. làm Phân Đội Trưởng, tôi đi vị trí hai. Vừa qua khỏi vĩ tuyến 17 thì đột nhiên có hai anh chàng Hạ Sĩ Quan Trọng Pháo Mỹ từ hầm tầu bước lên, mặt mày hớn hở tình nguyện đặt dưới quyền chỉ huy của tôi trong chuyến công tác này. Tá hỏa, tôi báo cáo cho anh H. xin quyết định. Anh H. báo cáo ngay về phòng hành quân; chỉ 10 phút sau, lệnh khẩn cấp yêu cầu phân đội quay về hậu cứ ngay lập tức.

Vừa đến cầu tầu là đã thấy xe bít bùng chở hai ông bạn Mỹ thích phiêu lưu lên phi trường về nước ngay lập tức. Cũng vui là chuyện này chỉ xảy ra có một lần".

Chúng tôi hy vọng những điều trình bày trên đây, dù còn rất nhiều thiếu sót, đã làm sáng tỏ phần nào một số sự thật liên quan đến Sở Phòng Vệ Duyên Hải và Lực Lượng Hải Tuần. Bài này cũng nhằm mục đích vinh danh và ghi ơn các chiến sĩ Biệt Kích Hải Quân đã nghe theo tiếng gọi của "Tổ Quốc Đại Dương", không ngại ngần xông pha ngoài biển Bắc.

 


Trần Đỗ Cẩm
(Tháng 12 năm 1999)