Hue^' To^i va` Ma^.u Tha^n

Thực hiện: Jennifer W. Nguyen.
Tác giả: trung tá Nguyễn Văn Phán
Những trang liên quan: Tết Mậu Thân 1968
Phần chú thích








Từ Cai Lậy về thủ đô, nhập ngay vào đánh giải toả trại Cổ Loa của Thiết Giáp và Xóm Mới Gia Định xong xuôi, Quái Điểu TD 1 TQLC về nằm dọc đường Ngô Tùng Châụ Mười hai giờ khuya họp TD, 2 giờ sáng có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhứt, 4 giờ sáng lên máy bay đi, đi đâu không biết. Đồ khô và tái trang bị không lãnh kịp. Cứ lên phi trường rồi haỵ Đó đây những loạt pháo kích, những loạt đại liên rời rạc, những đốm hỏa châu lủng lẳng trên bầu trờị Tôi để lại đàng sau một Sài Gòn mang nặng bộ mặt chiến tranh. Những chiếc máy bay C 130 khổng lồ nuốt gọn 800 Quái Điểu và đưa chúng tôi lên cao trong đêm tối mịt mùng.

- Đi đâu bâỷ

- Nha Trang, tao nghe Nha Trang đang có đánh nặng.

Lượm Đại đội trưởng Đ1 (dân NT) trả lờị Tôn Đại đội trưởng Đ2 cãi:

- Đà Lạt.

Phán phu nhân nói:

- Đi đâu cũng được, đổi vùng là khoái rồị

(Khi vào Quân trường, Phán trình diện: Tui chánh quán làng Phú Nhơn, ở gần Hồ Tịnh Tâm, quận Thành Nội, Huế. Thế là sau đấy, giữa lửa đạn và thịt đổ xương rơi, và qua tiếng thét trong máy truyền tin, cái tên ngụy trang "Phu Nhân" ra đời, nghe thật lạ tai!)

- Máy bay chi bay mãi ri bâỷ

Thời tiết thật xấu, và rồi bánh xe phi cơ cũng chạm đất, những cặp mắt đổ dồn ra khung cửa sổ máy baỵ Phú Bài! Cơn gió cắt da, bãi cát trắng trải dài, mưa nặng hột. Thiếu áo lạnh, tất cả đầu cuốn Poncho đứng nhìn đoàn người gánh gồng xuôi ngược, hấp tấp và lo sợ, một số về Truồi, một số lên Gia Lê, An Cựụ

TQLC Vie^.t Nam
Tình đồng đội của những người lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam.
Phú Bài đó, Tịnh Tâm đó, Cầu Kho đó, Mạ, dì, chị và em mình đó mà không liên lạc được. Tình hình không biết sao, ruột như lửa đốt. Trách nhiệm nặng nề, tôi nằm trằn trọc suy nghĩ thật nhiều để chờ sáng maị Kỷ niệm thời đi học về trong trí tôi, đẹp quá, nhẹ nhàng quá, vụng dại quá.

10 giờ sáng, đoàn xe GMC đưa chúng tôi về Huế. Qua Gia Lệ, đồng bào hỗn loạn, nét lo âu hiện rõ trên nét mặt. Tới An Cựu, dân chúng thưa thớt, nhà hai bên đường đóng kín cửạ Dọc quốc lộ 1 từ Huế về Phú Bài, binh sĩ Nhảy Dù từng toán dìu nhau âm thầm đếm bước. Những cái nhìn như nhắn gửi, như lo sợ giùm chúng tôị Mạnh, Đại úy Nhảy Dù, cùng khoá cho tôi biết:

- Huế tang thương và điêu tàn lắm Phán ơị Thừa (cùng khoá) chết, Phạm như Đà Lạt bị thương ...

Mạnh khắp người băng bó đang được 2 đệ tử dìu bộ về phi trường Phú Bàị Mạnh tiếp:

- Phán, mày cẩn thận. Không yểm trợ, không thực phẩm, không tiếp liệu, thời tiết quá xấụ Tụi nó chiếm hết thành phố, Đại Nội, Gia Hộị Tụi nó chốt rất kỹ, chỉ còn cái lõm nhỏ ở Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 1 tại Mang Cá.

Sau này được nghe nói: Vì nghe tin tướng Trưởng kẹt nặng nên đại bàng Lê Quang Lưỡng, Lữ đoàn trưởng LD Nhảy Dù đã xua quân đi bộ từ cây số 17 về Huế để cứu tướng Trưởng. Tôi xin tướng Lưỡng cho tôi được nghiêm mình chào một cách đầy kính phục cho cái tình nghĩa huynh đệ không bút nào tả nổi nàỵ Để đáp trọn tình nghĩa, LD của đại bàng Lưỡng cũng hao hụt nặng nề.

Đoàn xe dừng lại bên hông DH Văn Khoa, cách con đường là trường Kiểu Mẫu mới xây, đối diện là Đài phát thanh Huế. Và trước mặt là cầu Trường Tiền, chiếc cầu tượng trưng cho xứ sở Huế, chiếc cầu đã hàng ngàn, hàng vạn lần qua lại, đầy ắp kỷ niệm.

Nhìn qua chợ Đông Ba và phố Trần Hưng Đạo mà lòng quặn thắt. Một mái chợ đã sập. Những cột khói ngút trời cách khoảng. Từ đầu đường Trần Hưng Đạo đến cuối đường không một bóng ngườị Nhìn bên phải là cầu Gia Hội vắng tanh. Những cột khói khác vươn lên ... Cả thành phố đã chết, Huế tôi tang thương đến thế sao! Một nhịp cầu đã sập, tôi nghĩ vành khăn trắng đã cuốn lấy Huế.

Xuống tàu tại chân cầu Trường Tiền, xuôi giòng sông Hương xanh biếc qua Gia Hội, quẹo trái sông Hang Bè. Cầu Đông Ba đó, có tiệm La Ngu ngày xưa chúng tôi thường mua dụng cụ học trò. Tiếp tục xuống ngang tiệm gạo Mụ Đội, có người con gái đẹp não nùng tên Xuân mà con trai Huế lứa tuổi tôi đều hơn một lần đi qua đó để nhìn người con gái trời cho đẹp. Qua trường Bình Minh, nơi tôi học năm đệ Tam, nhiều kỷ niệm đẹp. Đến Bao Vinh, dân chúng nhớn nháo khi thấy 1 đơn vị lớn đaNg đổ bộ tại bến đò.

Na.n nha^n pha'o ki'ch cu?a Vie^.t Co^.ng
Em bé gái vã những gì còn lại sau lần pháo kích bừa bãi của Cộng quân vào Huế năm 1968.
Tôi hướng dẫn đơn vị vào Mang Cá Nhỏ để tới bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Địch chào đón bằng hàng loạt hoả tiễn 107 và 122. Tất cả nằm sát bờ tường để tránh pháo và tìm chỗ phòng thủ. Tôi cho lệng Sự, Trung úy Đại đội phó kiểm soát con cái và chuẩn bị cơm chiềụ Trung úy Sự là sĩ quan trẻ, có tài và đầy nhiệt huyết, xuất thân khoá 19 Võ Bị DaLat, thủ môn hội tuyển Nha Trang, đúng là đa năng đa hiệụ Tôi dự buổi họp TD khẩn cấp và quan trọng. TD trưởng ra lệnh:" Phu Nhân rành địa thế dẫn đầu, 8 giờ sáng mai xuất phát. Kế tiếp là Tôn, Đại đội 1, Lượm Đ 2. Tiếp theo là Bộ chỉ huy TD cùng Đ chỉ huy, sau cùng là Tòng Đ4. Mục tiêu Phu Nhân phải chiếm là trường tiểu học Trần Cao Vân. Trước trường có thành Quân Cụ, vào khoảng 1 Đ ta đóng tại đó, không biết còn hay mất". Phán hỏi: "Còn phi trường Thành Nội thì saỏ Tình hình trong Đại Nội> Thiếu tá có nắm vững không?". "Không rõ, tụi nó chiếm hết, chốt rất kỹ. tất cả các cửa Thành Nội tụi nó đều kiền và chốt rất chặt. Cửa Hữu, cửa Chánh Tây, cửa Sập, cửa An Hoà, cửa Đông Ba, Kỳ đài Phú Văn Lâụ..tụi nó đều chiếm hết". Trong óc tôi, 1 bản đồ chi tiết hiện ra rất rõ cho 1 cuộc hành quân mà tình hình tôi nắm không được vững. Tôi cố tìm 1 con đường ngắn và an toàn nhất cho đơn vị để tới mục tiêụ Có rất nhiều đường đưa tới trường Trần Cao Vân, nơi từ 9 đến 19 tuổi tôi đã bao nhiêu lần đi lạị Con đường nào cũng đầy hoa và mộng. Nay tôi đang tìm 1 con đường không có máu để cho anh em chúng tôi đị

8 giờ sáng, tất cả gọn gàng, sẵn sàng di chuyển. Ba trăm thước đường từ Mang Cá đến nhà tôi sao quá dàị Bồn chồn, nóng ruột vì nơi đó có Mạ tôi, dì tôi, chị tôi và em trai út của tôi đang trông ngóng. Không biết có bị gì không? Thiếu úy Duật, Trung đội trưởng Trung đội 2 dẫn đầụ Duật xuất thân 21 Đà Lạt, hăng say, gan, thích xóc dĩa và gái đẹp, uống rượu rất ít, chỉ phá mồị Phán và Bộ chỉ huy kế tiếp. Thiếu úy Nghênh, Trung đội trưởng Trung đội 1 tiếp theọ Nghênh kinh nghiệm, gan lỳ, thích đánh phé nhưng đánh nhỏ, rượu rất ít và không thích gáị Kế đến là Thươ>ng sĩ nhất Mã Khện, Trung đội trưởng Trung đội 3, rất gan lỳ, ít nói, mê rượu, không mê gáị Sau cùng là Thượng sĩ nhất Hải, Trung đội trưởng Trung đội súng nặng. Hải người Nùng, lỳ lợm già dặn chiến trường, không rượu, không gái, không thuốc lá.

Hai bên đường dân chúng đứng chen chúc, vẻ mặt hớn hở thật tội nghiệp cho họ. Lần lần những khuôn mặt quen thuộc hiện ra, những cánh tay vẫy chào, nào mụ Đội Dậu, mụ Ba, ông Sung, ông Dung, anh Thiên chủ bàn Ping Pong ... Những tiếng nói đó đây:" Anh Phán đó tề! Anh Phán..." Tiếng gọi lớn và lan dài suốt con đường tôi đị

Con hẻm sát hồ Tịnh Tâm là đường vào nhà tôị Mạ tôi đó, dì, chị và em tôi đó. Xao xuyến quá! Tôi đi nhanh đến ôm Mạ tôi, dì và chị tôi khóc như mưạ Thằng em luống cuống chạy quanh, bị Mạ tôi nạt:" Mi chạy mau vô nhà lấy khúc cá kho khô và đòn bánh tét gói lại đem ra đây bới cho anh mi". Mạ tôi dụi vào tay tôi chai dầu Nhị Thiên Đường:" Con xức cho khỏi gió". Lính đi ngang hỏi nhau:" Mạ Đại úy sao đầu trọc lóc vậy bâỷ". " Bà ấy đi tu để phước cho con, tụi mình cũng được hưởng ké đấy". Phán và âm thoại viên vẫn còn dừng lại: " Nhà mình có răng không Mạ? Bà con thân thuộc có ai bị chi không?. " Nhà ông Quế chủ quán Chiêu bị trúng 2 trái nhưng người thì không răng. Nhà mình bị ngói đổ 1 góc, cây đào bị gãy ngọn. Còn thằng Chỉ không biết đi mô". Chỉ là bạn tôi xuất thân 17 Võ Bị DaLat. Tôi xót xa đắng miệng:" Thôi con đi, Mạ và gia đình đừng lo cho con". Mạ tôi khóc oà, tôi thật não lòng. Những tiếng gọi anh Phán, anh Phán tiếp tục vang lên cho đến giữa hồ Tịnh Tâm.

Tiếng gọi, giọt nước mắt và những cánh tay chào vẫy, phải chăng nhắc nhở trách nhiệm của tôị Bây giờ là lúc đền đáp ơn sâu nghĩa nặng. Vinh dự này thật khổ. Máu nóng sôi trong người, tôi và 2 âm thoại viên vượt lên đi với Trung đội đầụ Cuối hồ Tịnh Tâm là đường Tịnh Tâm, tôi cho lệnh quẹo tay mặt theo đường lên nhà ông Ngư Đạt. Như vậy bên hông mặt của con cái tôi lúc nào cũng có bức thành và cái hồ che chở. Cuối đường Tịnh Tâm quẹo trái là trường tiểu học Đoàn Thị Điểm, nhưng tôi không đi con đường nàỵ Tiếp tục thẳng qua 1 con hẻm nhỏ, con đường đã bao lần đi lại, nào ăn cắp me, nào trộm sấu, nào hái soài, nào đào sen, nào học thi, nào thăm người yêụ.. Con đường nào cũng nhắc tôi bao kỷ niệm yêu dấu khôn quên.

Đến Canh Nông, chưa thấy phản ứng nào của địch, gần sân bay Thành Nội dân chúng thưa thớt và kinh hãị Tôi cho dừng quân bên này đường, 1 ông già mách:" Con đường ni bị bắn rất rát, từ trong cửa Hoà Bình ở Đại Nội bắn ra". " Còn sân bay Thành Nội ra sao ôn, có ai khôn?". " Đánh nhau mấy ngày ni dữ lắm, mà tui không biết răng, không biết mình hơn hay thua nữa".

Tôi chỉ con đường và hướng dẫn Duật:" Băng qua khỏi con đường này, đến 1 xóm nhà, qua 1 cái cống thì bên trái là thành Quân Cụ". Nghênh và Mã Khện yểm trợ hông mặt cho Duật, và sau đó băng qua đường theo tôị Con đường chỉ có 5 thước mà hơn 1 giờ mới vượt qua với 6 thằng em rớt rụng trên mặt đất. Lần mò theo mép đường tới sát ống cống, tôi cho dừng lại, phi trường vắng tanh. Tôi bảo Duật:" Mày cho 1 thằng con nhỏ qua trước làm đầu cầu bên kia ống cống, sau đó cho tất cả con cái mày qua rờ vào thành Quân Cụ, chờ tau lên". Thành Quân Cụ cao khỏi đầu người, không liên lạc được với bên trong. Tất cả con cái nằm sát thành để tôi và đám cận vệ bò tới cổng chính. Loáng thoáng thấy nón sắt, field jacket, giây ba chạc. Không phải tụi nó đâu, chắc chắn là bạn rồị Thằng đệ tử tôi gọi lớn: " Ê, Thuỷ Quân Lục Chiến đây ". Một loạt đạn bay qua khỏi đầu một cách rùng rợn. Bò lết vào tới trong đồn, ông trưởng đồn nói tiếng Huế đặc sệt, ông là Trung úy Cát, thủ môn nổi tiếng của Huế:" Đại úy ơi, 7 ngày không ra vào nổi, nó bao hết. Trường Trần Cao Vân, Đại Nội, xóm nhà Bảo sanh sau lưng trường cách 1 cái hồ tụi nó cũng chiếm luôn. Dân chúng chạy hết rồi, không còn ai cả. Tụi nó pháo liên miên, không cho ngóc đầu được, đủ loại: 61, 82, hỏa tiễn 107, 122. Tôi ráng cố thủ đây được ngày mô hay ngày nấy, còn ngoài nớ tôi không liên lạc được nên không biết tình hình các nơi khác ra răng".

Tôi trở ra báo cáo về TD, lệnh của TD trưởng:" Phu nhân chiếm cho bằng được trường Trần Cao Vân, dọn sạch chung quanh. TD trưởng và Bộ chỉ huy sẽ lên ở trại Quân Cụ". Quan sát địa thế thêm một lần nữa, trước mặt trường là cái am lên đồng, bên cạnh là quán hớt tóc lợp tranh chỉ có 1 ghế ngồị Sát đó là ngã ba đường chạy lên cửa Sập, một chạy về trường Đào Duy Từ và một chạy đến trường Trần Cao Vân. Có 4, 5 cái đầu lố nhố bên trong trường.

Duật phải chiếm am trước, trong trường bắn ra mãnh liệt, có cả B40. Tôi ra lệnh Nghênh và Mã Khện cầm chân hoả lực trong trường học. Duật chiếm xong am không 1 tổn thất. Tôi gọi Thượng sĩ Hải đem 2 đại liên và một 57 không giật lên tăng cường cho Duật để Duật yểm trợ cho Mã Khện vào trường. Sau 45 phút dùng mưu kế cùng với hỏa lực và sự gan dạ, kinh nghiệm, Mã Khện đã chiếm được 1 lớp của trường. Nghênh tràn vào cùng với Mã Khện lục soát và làm sạch sẽ.

Hỏa lực từ góc Thành Nội đổ dồn về phía trường học, không sao, đã có thành của các lớp học che chở. Tôi kêu Sự:" Pháo binh có chưả kêu về đại bàng Thanh Hóa cứ bắn vào góc thành cho tau". Đến chiều vẫn không có 1 trái pháo bắn, anh em tôi có 7 đã lót đường cho mục tiêu và 3 bị thương nặng. Tôi lên sát Duật và bảo đem cây 57 đến:" Nhắm ngay vào góc thành, tụi nó bắn rát quá cứ Phơ cho tau, trật trúng gì không cần, chỉ cần tiếng nổ".

Cho^n ca^'t nhu+~ng ddo^`ng ba`o bi. Vie^.t Co^.ng tha?m sa't
Chôn cất thi hài của những đồng bào bị Việt Cộng tàn sát trong dịp Tết Mậu Thân 1968.

Qua 1 vạt đất trống, trong 1 ngôi nhà gạch có bóng người lấp ló. Duật quay 57 nhắm thẳng:" Nhột quá, cho em bung cái nhà này đi". Tôi bỗng thấy có bóng đàn bà, tôi la lớn:" Khoan bắn, nhà thày Tiềm". Rồi tôi băng qua đám đất trống đến nhà gặp cô và các cháụ Không thấy thày, tôi chào cô và giới thiệu tôi học Sử Địa với thầy ở trường Bồ Đề và khuyên cô về dưới phố. Tôi trở lại vị trí mà lòng nao nao buồn. Giờ này vẫn chưa có pháo, làm sao khóa góc Thành đó lạị Duật bảo con cái đào hầm hố thật kỹ, tôi dặn:" Mày cố thủ tại đây cho TD lên". Rồi cùng đám đệ tử lúp xúp chạy đến tiệm hớt tóc để quan sát ngã ba đường và góc Thành Nộị Tôi chợt nghe tiếng đàn bà rên la quằn quại, sau cùng chỉ còn tiếng rên nho nhỏ. Nơi góc quán tối tăm, 1 người đàn bà máu me khắp nửa phần thân thể, vừa bị thương nặng lại vừa sanh ra 1 bào thai lờ mờ tượng hình đứa bé, trông giống như con rắn mốị Xót xa, chịu không nổi, tôi ra lệnh đem chôn đứa bé đã chết ngay và chuyển người mẹ về đồn Quân Cụ cho bác sĩ Tựu giúp. Đến đây 13 người chết và 3 bị thương nặng để trải thảm cho đơn vị

Tối đó, Bộ chỉ huy TD đến trại Quân Cụ. Sáng hôm sau, TD trưởng cho Đ 2 của Tôn và Đ 1 của Lượm dưới sự chỉ huy của đại ca Đã, TD phó, chiếm nhà Bảo sanh. Đoạn đường có 30 thước, cách 1 hồ nhỏ mà phải trả bằng 50 đứa con thân yêụ Sau 8 tiếng đồng hồ mới chiếm được nhà Bảo sanh, Tôn bị thương ngay từ phút đầu, Lộc Đ phó lên thaỵ

Mười ngày tiếp theo, nhìn nhau qua 1 con đường rộng vừa đủ cho xe chạy mà 2 bên đều khựng. Mưa vẫn rơi ray rứt lê thê, thỉnh thoảng cơn gió thật lạnh thổi quạ Có những trận tấn công chớp nhoáng của địch vào Đại đội của Lượm và Lộc đều bị đánh bật luị Ngược lại ta cũng nhiều lần cố tràn qua bên kia nhưng không chiếm được 1 tấc đất. Hai bên tải thương đều thấy nhau rất rõ. Lượm bị hao hụt nặng. Phu Nhân lên thaỵ Tôi và con cái bò lên từng toán một, địch và ta đã sát nhau, ngóc đầu lên là đạn xuyên qua mũ sắt ngaỵ Hơn nửa ngày mới trám hết vị trí của Lượm. Lượm và Tòng về phòng thủ cho TD. Tối đến pháo địch đủ loại nổ vang trờị Xác chết của anh em nằm trên mặt đường, sình lên mà không lấy được. Phía bên kia 4, 5 xác địch vẫn để yên, tụi nó không dám ra lấy về. Cố giữ đất, giữ vị trí và làm vài cuộc tấn công nhỏ vẫn không qua đường được.

Từ căn nhà 2 tầng cuối đường nhìn xéo từ nhà Bảo sanh, 1 thượng liên và 1 trung liên nồi của tụi nó kiểm soát con đường rất kỹ, dưới sự chỉ huy của 1 đứa con gái mặc áo choàng màu xám, tóc xỏa dài nhưng không thấy rõ mặt. Tay đứa con gái chỉ tới đâu thì đạn nổ dồn về hướng đó. Tôi nhắm bắn 2 phát M16 nhưng hụt, nó trốn nhanh vào sau cửa và mất luôn.

Hai mươi ngày nằm chịu pháo và bị bắn sẻ, tối nào 2 bên cũng rà máy chửi nhaụ Theo dõi máy, đột nhiên tôi bắt được 1 câu báo cáo:" Bồ câu hết thóc!" và nghĩ ngay địch quân đang thiếu đạn. Nếu cứ nằm thế này, một lúc nào đó địch quân chỉ cần ho thật to mình cũng mất vị trí ngay, chỉ vì áp lực quá nặng nề, tổn thất nhiều, tinh thần anh em quá mệt mỏị Tôi đi đến kết luận riêng: nếu mình không đánh nó, chắc chắn nó sẽ tấn công mình. Tôi trình với TD trưởng:" Thiếu tá cho tôi luôn thằng 2 để tôi tấn công tụi nó. Tôi thấy tinh thần anh em xuống quá và sức khoẻ ngày càng hao hụt". TD trưởng không cho bắt ráng giữ vị trí. Phu nhân năn nỉ: " nếu không thì cho tôi đột kích, tôi cùng vài toán nhỏ tràn qua đường đánh đột kích rồi về. Mình phải chứng minh cho địch quân thấy mình còn dư sức ăn thua đủ, thời địch không dám tấn công mình". TD trưởng nói;" Làm kế hoạch xong cho tôi hay".

Tại hầm của tôi anh em đang chờ, họ gồm: Lộc Đ 2, Sự Đ phó của tôi, Duật, Nghênh và Mã Khện. Tôi nói:" Nằm chờ lâu tau chán quá, chỉ muốn qua đột kích tụi nó rồi rút về". Tất cả im lặng, tôi tiếp:" 4 giờ sáng mai mình đột kích. Nếu giữ được vị trí tau cho tràn luôn. Bây giờ tau chọn 4 toán: Toán 1: Phán, Điểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máỵ Toán 2: Duật và 3 người thật nhanh và gan dạ, Toán 3: Nghênh và 3 ngườị Toán 4: Thượng sĩ nhất Hải và 3 ngườị Trang bị thật nhẹ: mỗi người 20 quả lựu đạn và 2 băng đạn cong ráp ngược cho M16. Sự và Lộc dẫn con cái ra sát bờ đường, khi thấy khói xanh thì lùa tất cả tràn quạ Nếu thấy khoí màu vàng, yểm trợ tối đa cho tụi tao dọt về. Sự và Lộc hãy về lo cho con cái, đúng 4 giờ sáng sẵn sàng tại vị trí".

Duật, Nghênh và Hải ở lại, tôi nhìn anh em thật lâu rồi cho biết:" Tau theo dõi tụi nó báo cáo qua máy hình như tụi nó thiếu đạn. Do đó tau quyết định cuộc đột kích hôm nay". Tôi nghiêm mặt và lạnh lùng nói:" Hai ông Duật và Nghênh tôi chỉ định phải đi với tôị Riêng ông Hải, tôi cho ông suy nghĩ lần nữạ Lần này đi khó trở về, ông con cái đông, muốn ở lại vị trí tôi cho phép và tôi hứa rằng tôi không nghĩ là ông thiếu can đảm". Suy nghĩ một lát, Thượng sĩ Hải trả lời:" Đại úy cho tôi ở lại vị trí". Tôi vui vẻ bằng lòng và gọi Mã Khện đến, Mã Khện đồng ý đi và xin đem theo Hạ sĩ nhất Mườị Tôi tiếp:" Bây giờ các ông về chọn người xong lên gặp tôi". Tôi ngồi suy nghĩ miên man, liều, phải liều mới cứu được đơn vị

Chiều hôm đó, lúc 4 giờ, các toán trưởng lên gặp tôi, có thêm Trung úy Sự. Tôi hỏi lần chót:" Có ai xin ở lại cho tôi hay". Không ai trả lờị Tôi căn dặn Sự nhắc Lộc khi thấy khói xanh thì sao và khói vàng thì sao, phải nhớ kỹ. Tôi đưa 3 toán trưởng bò đến hầm trú ẩn của nhóm tiền đồn ở sát ngã tư đường. Tôi chỉ từng căn nhà bên kia đường:" Cái thứ nhất gần ngã tư là mục tiêu của tau, cái thứ 2 kế tiếp có hàng rào là của Nghênh, căn thứ 3 cũng có hàng rào và cây nhãn cao là của Mã Khện, căn thứ 4 có mấy bụi chuối lớn là của Duật. Tất cả hãy quan sát cho kỹ và cố chọn 1 con đường tiến quân thích hợp, không cần báo cáo miễn sao thích hợp thôi".

Tôi tiếp tục quan sát mục tiêu của tôị căn nhà bằng gạch có nhà trên và nhà dưới, kế đó là cầu tiêu xây bằng đá lợp tôn, sát đường là cái giếng xây bằng xi măng. Trước sân có 2 cây vú sữa cao và sai tráị Tôi biết phải làm gì để chiếm căn nhà đó. Tôi quay lại nói:" Lần chót tôi hỏi các ông có ý kiến gì không? Đúng bốn giờ sáng mai tôi sẽ chiếm trước, sau đó tuỳ các ông bằng mọi cách phải hốt cho bằng được các mục tiêu tôi ấn định".

Trở lại vị trí, tôi dặn dò Điểu, Việt, Can Dư và Phúc mang máy:" Tối nay miễn gác, 3 giờ sáng mai gặp tau ở đâỵ Sau đó tôi đi gặp TD trưởng để trình bày kế hoạch. Ông nói:" Nguy hiểm quá, không được, chết cả lũ!". Tôi nói:" Nếu Thiếu tá không làm bây giờ, một vài ngày nữa tụi nó chỉ cần ho là lính mình chạy hết!". Cuối cùng ông chấp thuận:" Nhớ là có gì thì trở về liền, càng sớm càng tốt". Tôi dạ nhưng trong đầu tôi nghĩ khác. Trước mắt tôi bây giờ không có gì ngoài đoạn đường từ tiền đồn qua cái giếng, lên cầu tiêu, tới nhà dưới rồi chiếm nhà trên. Tôi nằm suy nghĩ triền miên cho đến 3 giờ sáng.

Trước khi bò ra tuyến xuất phát, tôi nhắc Sự và Lộc 1 lần nữa cho chắc ăn. 4 giờ kém 10 sáng, toán tôi có mặt ở tiền đồn. Trời vẫn mưa, mưa xứ Huế có dư âm cái lạnh của ngày Tết. Trời tối không thấy gì, tôi ngại bắn lầm nhaụ Gắng chờ 1 chút nữa, đến 5 giờ sáng mưa vẫn không tạnh, trời vẫn tối mù. Năm giờ rưỡi, cái giếng đã nhìn thấy được. Chuẩn bị! Tôi cảm thấy hồi hộp. Chỉ cần 4 cái nhảy vọt là qua bên kia đường nhưng khó như đi lên trời vì con đường này là con đường tử thần làm ranh giới bên ta và địch, là 20 ngày trời không nuốt nổi 5 thước đất. Rách bao nhiêu cũng không qua được. Bây giờ mình cắt băng khánh thành, phải làm để cứu đơn vị, phải hy sinh để cứu đồng độị Vừa suy nghĩ xong, tôi phóng vụt qua ôm bờ giếng. Kế tiếp là Điểu, Việt, Can, Dư băng theọ Tất cả ngồi ôm thành giếng, mồ hôi ra như tắm mặc dù trời lạnh như cắt. Điểu và Can chiếm cầu tiêụ Bỗng 1 loạt đạn thật dòn và thật gần, tôi quay nhìn ra đường. Phúc và cái máy nát mình nằm trên mặt đường nhựa, dưới làn đạn mịt mùng của địch. Tôi hét lớn:" Dư, Việt chiếm nhà bếp". Tôi theo sát lên cầu tiêu bên cạnh Điểu và Can. Súng và pháo nổ dồn dập, một B40 nổ ngay trên đầu mái tôn cong, cả ba thày trò đều bị miểng nhỏ đâm đầy mặt, tóc râu và lông mày đều bị cháỵ Cầu tiêu nhỏ quá nên tôi cùng Điểu và Can lên nhà bếp. Tôi ra lệnh:" Điểu và Dư chiếm nhà trên, lục soát thật kỹ". Để Việt ở lại, tôi và Can cũng lên nhà trên. Điểu và Can giữ cửa chính nhìn ra sân, tôi và Dư giữ cửa sổ nhìn ra vườn có nhiều luống khoai lang.

Trời sáng hẳn, tôi lắng tai chẳng nghe nhà bên cạnh có gì cả bèn bò trở ra bờ giếng và thấy Duật, Nghênh, Mã Khện vẫn còn bên kia đường. Tôi toát mồ hôị Tôi nhìn thẳng vào mấy ông rất nghiêm và lấy ngón tay ngoắc. Tôi không dám gọi lớn tiếng, mấy ông kia gật đầụ Tôi bò trở lên nhà trên. Lựu đạn, súng nhỏ, súng lớn nổ khắp nơi và nhất là phía bên tay mặt tôị Tôi biết rằng con cái tôi đã băng được qua đường. Tôi hỏi khẽ:" Thấy gì không Dử" Dư lắc đầu, tôi nghe tiếng thì thào sát vách tường phía ngoàị Tôi đoán 7, 8 người đang ở trong 1 cái hầm, tôi dùng ngón tay đẩy nhẹ cửa sổ. Một loạt đạn từ phía nhà đối diện xuyên ào ào vào cửa sổ. Bỗng Dư chỉ tay về các luống khoai, tôi đếm đủ 11 người đang bò qua, kaki Nam Định, súng AK và B40, cách vách tường khoảng 20 thước. Tôi đưa súng lên định bóp cò thì Dư kéo lại và ra dấu đừng bắn dùng lựu đạn. Tôi dựng cây súng xuống thật nhẹ, hai tay rút 2 trái lựu đạn miệng cắn chốt. Dư cũng thế, 4 lựu đạn ném ra cùng một lúc, tiếng nổ xé trời, rồi 4 trái tiếp theọ Bên ngoài tường, tiếng hét lớn rồi tiếng rên và sau đó im lặng, tụi còn lại bò sát vào chân tường. Nhìn ra cửa, 5 xác nằm vắt trên luống khoaị Một loạt đạn nổ và tôi nghe:" Chết em, Đại úy!". Tôi sững sờ nhìn Dư, tay trái ôm ngón út của bàn tay mặt đầy máu, ruột của Dư đổ ra lòng thòng. Dư ngã vật ra chết tại chỗ, nơi Dư đứng có 1 lỗ hổnh nhỏ ở vách tường. Vì mải nhìn qua cửa sổ mà không để ý ở phía dưới: Nguyên 1 họng AK thọc qua lỗ tường để sát bụng Dư mà nhả đạn. Tôi bắn 1 loạt M16 ra cửa sổ, và cứ thế hết quả này qua quả khác tôi ném tất cả lựu đạn của tôi ra ngoài bờ tường. Hai thằng em đã hy sinh, còn 4 thầy trò phải giữ vững vị trí. Phía bên tay phải của tôi súng vẫn nổ dữ dộị Đến 10 giờ 30 sáng tôi cho Điểu liên lạc với Nghênh, Duật và Mã Khện. Điểu băng người ra đi, bốn căn nhà cách nhau 10 phút đi bộ mà hơn 1 tiếng đồng hồ sau Điểu mới về báo cáo là tất cả đã chiếm được mục tiêụ Có đoạn đường nào xa và xấu hơn đoạn đường tôi đang đi! Toán Duật: 1 chết 1 bị thương. Toán Mã Khện: 2 chết. Toán Nghênh 1 chết 1 bị thương. Tất cả là 6 chết 2 bị thương, chúng tôi còn 11 người tại tuyến.

Điểu bò ra giếng cố đem qua cho tôi 1 cái máỵ Cột máy vào 1 đầu dây và quăng đầu dây kia qua cho Điểu kéọ Can mở máy liên lạc với TD:" Trình đại bàng, tôi sẽ cho tràn ngập vị trí với thằng 2 của Lộc và thằng 3 của tôi". Đại bàng hỏi:" Tại sao từ sáng tới giờ không chịu liên lạc với tôỉ Tôi ra lệnh rút về ngay". Phán nài nỉ:" Đây là dịp may, tinh thần anh em đang lên, tôi xin đại bàng cho làm luôn!". Đại bàng Thanh Hoá nói bằng bạch văn không nguỵ trang:" Nếu anh không rút về, tôi sẽ đưa anh ra toà án quân sự". Khí giận bừng bừng, tôi tắt máy không trả lời, trên tay vẫn cầm trái khói xanh. Suy nghĩ thật kỹ! Suy nghĩ thật kỹ! Hơn mấy giờ để đánh mục tiêu, 4 căn nhà và 1 con đường ngập máụ Mưa vẫn lạnh như cắt da và mồ hôi vẫn ra như tắm. Cuối cùng tôi đành bảo Điểu chuyển lệnh cho các toán:" Rút về ngay, mạnh toán nào rút toán nấy, không chờ đợị Mang thương binh theo, xác chết bỏ lại". Năm thước đường đi đã khó, về còn khó hơn. Mỗi bóng người nhúc nhích là đạn nổ hàng loạt, liên hồi, đạn bắn chéo bao phía, đạn lưới thật dầy trên mặt đường và khắp vị trí. Làm sao trở về đây! Con cái bên kia đường đưa mắt theo dõị Toán tôi bò ra giếng, bỗng mấy bóng đen vụt qua đường như sao xẹt, nhào vào bờ lề và được anh em kéo ra saụ Đạn nổ dòn tan cày nát mặt đường. Đây là mấy đứa bị thương nặng, tưởng là di chuyển không nổi, nhưng khi nghe lệnh rút chúng thu hết tàn lực vùng chạy về, chớp mắt không kịp thấỵ

Hoả lực 3 phía nổ vùi vào vị trí chúng tôị Các toán đột kích không còn liên lạc với nhaụ Điểu và Can vẫn giữ căn nhà. Địch kiểm soát con đường bằng mấy cây thượng liên và trung liên, chúng bắn liên miên. Bên kia đường Sự và Lộc đáp lễ bằng hoả lực cơ hữu của Khăn tím và của 2. Tôi lấy chân đạp vào thành giếng phóng người băng qua đường, lăn mình, nhảy, chạy và té ào vô bờ lề. Anh em kéo vội tôi ra sau, tôi dừng lại bảo Lộc và Sự bắn từng loạt một để tụi nó dọt về. Nhìn thấy Việt ngồi thành giếng trố mắt ngó về mà tội nghiệp. Sống và chết cách nhau có 1 con đường. Tôi hồi hộp xót xa cho mấy thằng em. Tôi vừa quay mặt hét:" Bắn kềm mấy cây thượng liên", thì những bóng người bay vọt qua đường. Tim tôi thắt lại, đạn nổ mịt mù. Lần lượt tôi gặp Nghênh, Duật, Mã Khện và tất cả amh em.

Tôi ôm ghì từng đứa, tụi nó còn sống cả. Can và Việt nhào đến ôm tôi 1 cách dữ dội mà đậm đà trìu mến. Lính với tay sờ người, nắm nhẹ áo tôi:" Đại úy, tóc râu Đại úy cháy hết rồi, mặt bị dăm nhiều chỗ". Cả Đại đội bất chấp đạn địch, đứng dậy nhìn nhau hãnh diện và sung sướng. Tôi báo cáo TD:" Tất cả đã về vị trí". Bỗng tôi thấy thiếu 1 cái gì, tôi nhìn Can và Việt hỏi:" Thằng Điểu đâủ". Tụi nó nói:" Lần cuối cùng em thấy nó vừa khóc vừa chạy lung tung tìm xác Đại úy ở bên ấy". " Thôi chết tau rồi, tau phải cứu nó, hai thằng bay theo tau". Tôi, Can và Việt bò trở ra đường. Bỗng nhiên 1 bóng người nhảy qua khỏi hàng rào, nhảy qua khỏi miệng giếng, phóng nhanh qua đường, nhào lăn rào rào vào vị trí và la lớn:" Ê, tụi bay thấy anh Hai đâu không?". Điểu đứng dậy nước mắt đầm đìa, tôi lao đến ôm Điểu:' Tau định qua kiếm mầy đây!". " Trời anh Hai, tụi nó nói anh Hai chết rồị Em đi lục hết căn nhà mấy chục lần, chỉ không dám ra ngoài hè mà không thấy xác anh Hai đâụ Hôm trước Mạ có dặn nhỏ với em, phải sát cánh bên anh Hai, nếu có gì cũng phải nhớ đem anh Hai về cho Mạ...". Tóc tai mặt mày râu ria Điểu cháy nám, áo quần rách bươm, nó khóc mùi mẫn vì thấy tôi còn sống. Rồi nó lại bẽn lẽn cúi đầu hai hàng nước mắt lã chã giọt xuống đất. Trong 1 cuộc chiến bạc bẽo lại có chút tình nghĩa trao nhau qua mấy giọt nước mắt nóng hổị

Sáu giờ chiều, xuống trình diện TD trưởng, ông nói ngay:" Ông làm những chuyện nguy hiểm quá, lỡ kẹt bên đó thì nói làm sao với Lữ đoàn?". Tôi dạ dạ vâng vâng cho qua rồi nghiêm mặt đề nghị:" Thưa Thiếu tá, ngày mai cho tôi tấn công, tôi tin chắc sẽ tràn ngập vị trí tụi nó. Cho tôi thêm thằng 2 của Lộc, để thằng 1 của Lượm đi sau thu dọn chiến lợi phẩm. Chỉ xin Thiếu tá cho tôi 2 chiếc tank kèm hai bên hông của tôi". Ông hỏi:" Có chắc ăn không Phán?". Tôi cương quyết:" Chắc, và nếu tràn được vị trí Thiếu tá cho phép tôi đánh thẳng lên Kỳ Đài nếu kịp thời gian". Tôi theo TD trưởng lên trình ông Già Hự (Đại tá Yên Tư lệnh phó). Ông già chấp thuận.

Tôi trở về họp các Trung đội trưởng:" Ngày mai 8 giờ sáng, Đại đội 3 Khăn tím bên trái, Đại đội 2 của Lộc bên phải, dàn hàng ngang lấy con đường lên cửa Sập làm chuẩn tiến song song. Sau khi 2 chiếc tank yểm trợ bằng hoả lực xong, cả 2 Đại đội xung phong tràn ngập vượt qua mỗi chốt thật nhanh, không cần thâu lượm chiến lợi phẩm, để cho Đ 1 đi sau làm chuyện đó. Tất cả ba lô và đồ ăn để lại, trang bị thật nhẹ. Khi tới xóm nhà sát cửa thành thì dừng lại chờ tôi".

Đúng 8 giờ sáng ngày hôm sau, dàn quân, 2 chiếc xe tank Ontos hạng nặng tiến lên, mỗi chiếc trang bị 6 cây đại bác 106 lỵ Tôi chỉ vị trí cho 2 trưởng xa người Mỹ rồi ra lệnh khai hoả. Hy vọng 12 cây 106 ly này sẽ san bằng mục tiêu trước mặt cho con cái tôi được dễ dàng đôi chút. Nhưng mỗi chiếc tank chỉ bắn 1 phát đạn duy nhất rồi chạy lùi biến mất, không biết chạy về đâụ Tôi hết hồn, quân đã dàn xong, bắt buộc tôi phải ra lệnh xung phong. Tôi hét thật lớn, hét khản cả cổ: XUNG PHONG! Cả 1 đoàn quân dàn hàng ngang, không 1 ai nhúc nhích. Con đường trước mặt, con đường của 21 ngày máu và nước mắt, con đường tráng nhựa đẹp đẽ nhưng băng qua là đi vào cõi chết. Tôi tức giận chửi thề lung tung rồi chụp cây đại liên M60 của người lính bên cạnh bắn 1 loạt dài rồi một mình tôi vừa bắn vừa băng qua đường cùng với toán cận vệ: Can, Việt, Điểu và 2 thằng mang máỵ Qua khỏi đường xông tới trước, tiếng đại liên của tôi nổ dòn. Đúng lúc ấy cả đoàn quân đồng thanh hô xung phong và ào qua đường. Sau đó, đoàn người vượt nhanh qua mặt tôi và lướt tới trước. Súng nổ vang rền, đoàn quân tiến đều, M16 bắn vãi vào chốt, lựu đạn ném vào chốt, đạp chốt, bang chốt, lướt qua, cố giữ đội hình. Tiếng nổ inh tai liên tục, đàn áp thật mãnh liệt và chạy tới trước. Đến 3 giờ chiều, chúng tôi đến xóm nhà sát cửa Sập.

Tôi ra lệnh:" Lộc và Sự mỗi ông cho 1 toán 10 người băng thật nhanh đến áp sát mặt thành xong ngồi xuống. Toán kế tiếp chạy đến leo lên vai toán thứ nhất để toán này đổ dồn lên thành. Khi bám được mặt thành thì tác xạ tối đa và bằng mọi cách giữ vị trí để làm đầu cầu".

Con cái tôi hành động đẹp còn hơn tài tử xi nệ Tiếng đạn lớn nhỏ nổ rền, 2 toán lên thành chiếm xong vị trí. Tôi cho tất cả con cái đem bàn ghế ra chất sát tường và leo lên ngaỵ Tiếng đạn và pháo địch vẫn mãnh liệt trên nóc thành, phải khóa lạị Một chặng đường xương máu đã vượt qua, bây giờ mục tiêu chính, mục tiêu của niềm hãnh diện, mục tiêu của ơn sâu và nghĩa nặng: Kỳ Đài Huế. Đây là nơi tượng trưng cho linh thiêng của dân tộc nói chung và cho Huế nói riêng. Duật và 20 người tiến chiếm 6 cây súng thần công to lớn, từ đó Duật dùng hoả lực kềm địch ở cửa Ngọ Môn, yểm trợ cho Nghênh và Mã Khện chiếm Kỳ Đàị

Phản ứng của địch bắt đầu yếu, 5 giờ 12 phút chiều, màu áo rằn ri Thuỷ Quân Lục Chiến đã làm chủ Kỳ Đàị Lá cờ xanh đỏ sao vàng đầy hận thù còn ở trên không. Một thằng lính rút đâu trong người ra 1 lá cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn. Tôi gọi về Tiểu đoàn:" Tất cả đã sạch sẽ, xin Thiếu tá cho tôi treo cờ".

Tôi nhớ rõ lệnh của Trung tướng Lê Nguyên Khang:" Một người lính TQLC duy nhất còn sống sót cũng phải dựng lại cho được ngọn cờ vàng tại Phú Văn Lâu". Trong niềm vui sướng cùng tột, Hạ sĩ Hạnh hét lớn: Thuỷ Quân Lục Chiến! Xong lấy trái hỏa châu đập mạnh định bắn pháo bông lên trời ăn mừng. Trong cơn say chiến thắng, Hạnh xoay ngược đầu hỏa châu vào mình, hỏa châu nổ xuyên bụng. Hạnh cười tươi:" Em không sao Đại úy!". Phán nghĩ thằng em này tỉnh táo quá, chắc nó chết. Và nó chết thật.

Tiểu đoàn trưởng bảo Phu Nhân giữ đầu máy chờ. Sau này tôi được nghe:" Khi báo cáo về Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1, Chuẩn tướng Trưởng xin TQLC dành vinh dự treo cờ cho Sư đoàn 1". Sánh hôm sau ngày 24/2 Phạm văn Định dẫn 1 đơn vị của SD 1 từ cửa Thượng Tứ lên làm lễ thượng kỳ.

Nhìn lá cờ vàng phất phới trên nền trời màu xám của Huế, tôi hãnh diện thật sự vì 1 thằng con của Huế đã góp phần dựng lại ngọn cờ nàỵ Trung úy Sự trình tôi: "Thằng Hạnh chết, mình còn 67 người". Đại đội ra đi hơn 170 người, sau 24 ngày và sau bao nhiêu lần bổ sung quân số, chỉ có 3 mục tiêu: con đường, cửa Sập và Kỳ Đài mà bây giờ chỉ còn lại 67 ngườị

Sáng hôm sau tôi về phối trí đóng quân lục soát ở khu vực cửa Đông Ba, Nhà Thương Nhỏ, chợ Xép, ngã tư Anh Danh. Bộ chỉ huy của tôi đóng tại 1 tiệm cầm đồ, tiệm này có Tôn và Lưu cùng học 1 lớp với tôi hồi nhỏ. Trong nhà không còn ai cả. Chiều hôm đó tôi gặp lại rất nhiều bạn bè cũ. Tình hình chưa được an ninh hoàn toàn nhưng đóng ở đây chúng tôi nhẩn nha hơn trước nhiềụ Tôi đi kiểm soát các vị trí và cho lệnh lục soát tàn quân địch.

Lính canh bắt giải tới 1 người đàn ông lớn tuổi, gầy ốm ăn mặc lếch thếch, áo vét nhàu rách, tóc tai rối bù và dơ bẩn, miệng nói lí nhí. " Lệnh giới nghiêm, đã 11 giờ đêm sao ông này còn lang thang trên hè phố, em nghi quá", người lính nóị Tôi sững sờ nhìn người đàn ông. "Thầy Cao Hữu Triêm! Trời ơi Thầy!". Tôi gọi mấy tiếng lớn mà thầy cũng không nghe, thầy tiếp tục lẩm bẩm rất nhỏ. Tôi cầm tay mời thầy ngồi:" Con là học trò cũ của thầy đây". Một ánh mắt lạc lõng xa vời:" Ờ, ờ sao con khoẻ không? Thầy mấy ngày ni chưa ăn chi cả". Lính tôi kiếm cơm trắng và 1 dĩa gà luộc về mời thầy xơị Tụi nó còn kiếm được 1 bình trà nóng mời thầỵ Sau 1 hồi thầy tỉnh táo và cho biết: cô và sắp nhỏ vào Đà Nẵng, thằng con lớn bị chết rồi, thầy không muốn về nhà nữạ Rồi thầy khóc, giọt nước mắt lăn dài trên đôi má nhăn nheọ "Thôi thầy ở đây với con cho yên", tôi nóị Lính của tôi thay nhau hầu hạ thầy ân cần, đến ngày thứ tư thầy đòi đi, tôi thu xếp để thầy vô Đà Nẵng. Từ đó, tôi mất tin tức của thầỵ Cầu mong thầy được bằng an.

Được sinh ra và lớn lên ở Huế, tôi cố trả 1 phần nào chữ Hiếu cho nơi chôn nhau cắt rún. Máu của tôi, của anh em tôi, của đồng bào tôi đã tạo thành 1 cơn sóng thần cuốn đi tất cả kẻ thù để dựng lại ngọn cờ trên Kỳ Đài tượng trưng cho Huế. Hai mươi năm sau, hồi tưởng lại, máu và xương kia đã theo giòng Hương giang cuốn tôi và bằng hữu ra biển bắt làm người biệt xứ. Lạy trời, 1 ngày nào đó, cũng Cố Đô đó, cũng Kỳ Đài đó, cho tôi được góp phần dựng lại ngọn cờ một lần nữa để đền đáp ơn sâu và nghĩa nặng, nơi tôi đã sinh ra, nuôi tôi lớn lên và cho tôi làm ngườị

    Trung Tá Nguyễn Văn Phán



Người Lính Việt Nam Cộng Hòa
Web page created by Jennifer W. Nguyen